Cải cách ngoài nước Đức Cải_cách_Kháng_nghị

Cải cách tại Anh

Cuộc cải cách tại Anh diễn biến theo chiều hướng khác. Từ lâu đã xuất hiện trào lưu bài tăng lữ, cũng đã dấy lên phong trào Lollard, soi dẫn những người theo Jan Hus tại xứ Bohemia. Tuy vậy, vào thời kỳ ấy của thập niên 1520, phong trào này không tạo được ảnh hưởng đáng kể nào trong quần chúng. Đặc điểm của cuộc cải cách tại Anh là xuất phát từ những mục tiêu chính trị của Henry VIII. Mặc dù từng là tín hữu Công giáo nhiệt thành, chưa bao giờ chối bỏ giáo lý Công giáo, và từng viết sách công kích Martin Luther, nhà vua nhận ra rằng tách rời khỏi ngai Giáo hoàng là ích lợi hơn nhiều. Năm 1534, đạo luật Quyền Tối Thượng đặt Henry vào vị trí đứng đầu Giáo hội tại Anh Quốc (không phải Giáo hội của Anh Quốc). Từ năm 1535 đến năm 1540, dưới sự lãnh đạo của Thomas Crommwell, chính sách giải thể các tu viện được tiến hành. Sự sùng kính dành cho các thánh, những cuộc hành hương và các địa điểm hành hương bị huỷ bỏ. Một số lượng lớn đất đai và tài sản của giáo hội được trao vào tay nhà vua, sau đó là giới quý tộc.

Nữ hoàng Elizabeth I

Nhiều nhà quý tộc chống đối cuộc cải cách này như Thomas MoreGiám mục John Fisher, và cả hai đều bị xử tử. Cùng lúc là sự lớn mạnh của phong trào Kháng Cách, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Huldrych ZwingliJohn Calvin. Khi Edward VI kế vị Henry năm 1547, những người này nhận được sự ủng hộ của triều đình. Một tiến trình cải cách mạnh mẽ hơn được thực thi bao gồm quyết định huỷ bỏ lễ Misa và các tượng thờ. Sau một thời gian ngắn, khi Công giáo Rôma được phục hồi trong thời trị vì của Mary (15531558), một sự đồng thuận tương đối được thiết lập dưới triều Elizabeth I, tuy điều này vẫn còn là vấn đề đang tranh cãi trong vòng các sử gia. Thời trị vì của Elizabeth I được xem là thời kỳ khởi nguyên của Anh giáo (Anglicanism).

Sự thành công của Phong trào Phản Cải cách tại Âu châu và sự lớn mạnh của nhóm Thanh giáo tại Anh khiến cuộc cải cách bị chia rẽ theo chiều hướng phân cực, mặc dù phải đến thập niên 1640, nước Anh mới trải qua cuộc tranh chấp tôn giáo mà sự khắc nghiệt của nó có thể so sánh được với những gì mà các nước láng giềng đã gánh chịu vài thập niên trước.

Thanh giáo

Phong trào Thanh giáo trong thời kỳ sơ khai (cuối thế kỷ 16 – thế kỷ 17) theo Thần học Calvin với mục tiêu cải cách Giáo hội Anh. Khởi phát từ những bất đồng với chính sách tôn giáo của Nữ hoàng Elizabeth I, họ cố thuyết phục Giáo hội Anh đi theo mô hình các giáo hội Kháng Cách ở lục địa châu Âu, đặc biệt là cuộc cải cách tôn giáo tại Geneva. Những người Thanh giáo bác bỏ khuynh hướng chú trọng nghi thức trong giáo hội, xem điều đó tương tự tội thờ lạy hình tượng. Họ cũng chống đối việc thành lập các tòa án tôn giáo, và từ chối công nhận hoàn toàn các chỉ dẫn về nghi thức của Kinh Cầu nguyện chung.

Về sau, phong trào Thanh giáo được xem như là thành phần ngoài quốc giáo, sau cùng họ tiến hành thành lập các giáo hội có khuynh hướng Cải cách như Giáo hội Trưởng Lão.

Scandinavia

Gustav I

Trong thế kỷ 16, tất cả vương quyền vùng Scandinavia lần lượt chấp nhận tư tưởng Luther như vương triều Đan Mạch (cai trị cả Na UyIceland), và vương triều Thụy Điển (cai trị cả Phần Lan) đều đến với đức tin Kháng Cách.

Tại Thụy Điển, cuộc cải cách được đẩy mạnh bởi Gustav Vasa trị vì từ năm 1523. Nỗ lực của Giáo hoàng can thiệp vào nội tình giáo hội Thụy Điển khiến bang giao chính thức giữa nước này và Giáo hoàng bị cắt đứt kể từ năm 1523.[9] Bốn năm sau, tại Hội nghị Västerås, quốc hội công nhận thẩm quyền của nhà vua trên giáo hội như quyền sở hữu tài sản giáo hội, phê chuẩn việc bổ nhiệm các chức sắc. Ngoài ra, các chức sắc giáo hội phải chịu xét xử theo luật dân sự, và "Lời tinh tuyền của Thiên Chúa" phải được giảng dạy tại nhà thờ và trường học – nghĩa là chính thức cho phép truyền bá tư tưởng Kháng Cách.[9]

Christian III

Dưới thời trị vì của Frederick, Đan Mạch vẫn duy trì đức tin Công giáo. Dù đã cam kết ngăn cấm cuộc cải cách, nhà vua lại theo đuổi chính sách bảo vệ những nhà thuyết giáo Lutheran và những nhà cải cách, trong đó có Hans Tausen.[9] Nhờ vậy, tư tưởng Luther xác lập ảnh hưởng vững chắc trong lòng người dân Đan Mạch. Khi Frederick băng hà, con trai ông, Christian, một người công khai chấp nhận đức tin Kháng Cách, bị ngăn cản kế vị cha cho đến khi ông kết thúc cuộc nội chiến năm 1537 để đăng quang với danh hiệu Christian III. Từ đó Giáo hội Luther trở thành quốc giáo của Đan Mạch.

Scotland

John Knox

Cao trào cải cách ở Scotland lên đến đỉnh điểm khi giáo hội được cải tổ theo giáo thuyết cải cách, và khi ảnh hưởng của nước Anh vượt trội nước Pháp. John Knox được nhìn nhận là lãnh tụ của cuộc cải cách tại Scotland.

Năm 1560, Quốc hội bác bỏ thẩm quyền Giáo hoàng, cấm cử hành lễ misa và phê chuẩn Tín điều Kháng Cách, bản tín điều này được xem như là phản ứng đối với ảnh hưởng thống trị của Pháp thông qua chế độ nhiếp chính của Mary nhà Guise, người cai trị đất nước khi con gái của bà, Mary Nữ hoàng Scotland (cũng là Hoàng hậu Pháp) vắng mặt.

Cuộc cải cách đã giúp định hình Giáo hội Scotland[10], và qua đó, xác lập nền tảng cho các giáo hội Trưởng Lão trên toàn thế giới.

Hà Lan

Không giống những nơi khác, cuộc cải cách tại Hà Lan không khởi phát từ giới lãnh đạo Mười sáu tỉnh của đất nước này, nhưng do các phong trào quần chúng, và được củng cố bởi các di dân Kháng Cách đến từ những vùng khác nhau trên đại lục. Dù phong trào Anabaptist có được sự ủng hộ của dân chúng trong vùng suốt những thập niên đầu của cuộc cải cách, Thần học Calvin, được thể hiện qua Giáo hội Cải cách Hà Lan, trở nên đức tin Kháng Cách có ảnh hưởng rộng lớn kể từ thập niên 1560.

Những cuộc bách hại dữ dội nhắm vào người Kháng Cách do chính quyền Tây Ban Nha của Felipe II đang cai trị Hà Lan càng thúc đẩy khát vọng giành độc lập của cư dân trong vùng, dẫn đến Chiến tranh Tám mươi năm, cuối cùng chia cắt khu vực này thành hai quốc gia: Cộng hòa Hà Lan phía bắc chấp nhận đức tin Kháng Cách, và nước Bỉ phía nam theo Công giáo.

Hungary

Một nhà thờ Waldensian tại Florence, Ý.

Trong thế kỷ 16, hầu hết người dân Hungary chấp nhận đức tin Kháng Cách. Việc truyền bá tư tưởng cải cách nhận được sự hỗ trợ tích cực từ cộng đồng người Đức đông đảo ở đây. Họ có thể hiểu và dịch các tác phẩm của Martin Luther sang tiếng Hungary. Trong khi Giáo hội Luther có ảnh hưởng rộng rãi trong cộng đồng nói tiếng Đức, tư tưởng Calvin được chấp nhận bởi người Hungary.[11]

Tại vùng tây bắc, giới cầm quyền và tăng lữ, được che chở bởi Vương triều Habsburg, đã từng chiến đấu chống người Thổ Nhĩ Kỳ để bảo vệ đức tin Công giáo. Họ tìm mọi cách để cầm tù người Kháng Cách và đem họ lên giàn hỏa thiêu. Tuy nhiên, chính sách khắt khe này chỉ làm gia tăng sự phản kháng.

Đến cuối thế kỷ 16, người Kháng Cách vẫn còn chiếm đa số dân Hungary cho đến khi những nỗ lực của Phong trào Phản Cải cách trong thế kỷ 17 dưới sự lãnh đạo của các tu sĩ Dòng Tên đánh bạt ảnh hưởng Kháng Cách, và đem phần lớn dân Hungary trở lại đức tin Công giáo.[12] Tuy vậy, vẫn còn một thiểu số đông đảo người Kháng Cách sinh sống ở đây, đa số chịu ảnh hưởng thần học Calvin.

Ý

Trong thập niên 1520, tư tưởng cải cách được truyền bá đến Ý, nhưng đến đầu thế kỷ 17, gặp phải sự chống đối của Tòa án Dị giáo và sự lãnh đạm của dân chúng, đã mau chóng suy yếu.[13]

Tuy nhiên, từ năm 1532 nhóm Waldensian (một phong trào Cơ Đốc khởi phát tại Lyons, Pháp, từ cuối thập niên 1170) chấp nhận tư tưởng cải cách theo Thần học Calvin. Qua hàng trăm năm bị bách hại, Giáo hội Waldensian vẫn tồn tại như là giáo hội Kháng Cách duy nhất tại Ý với khoảng 30 000 tín hữu.

Pháp

Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy, tranh của François Dubois

Dù không hề quan tâm đến các ý tưởng cải cách tôn giáo, Francis I (1515-1547) vẫn chủ trương bao dung tôn giáo. Song, sau biến động năm 1534 - khi những người được cho là tín hữu Kháng Cách treo dán áp phích khắp nước Pháp, ngay cả trong hoàng cung nhằm phản bác việc cử hành lễ misa - nhà vua thay đổi thái độ, xem cộng đồng Kháng Cách là mối de dọa cho sự ổn định chính trị của vương quốc. Từ đây khởi phát giai đoạn đầu của cuộc bách hại nhắm vào người Kháng Cách ở Pháp, thành lập Chambre Ardente (Phòng thiêu) – tòa án đặc biệt xét xử người dị giáo – thuộc Nghị viện Paris (Parlement de Paris) để giải quyết các vụ truy tố người dị giáo ngày càng gia tăng. Vài ngàn người Kháng Cách rời bỏ nước Pháp trong giai đoạn này, trong đó có John Calvin.

Geneva, Calvin vẫn quan tâm đến tình hình trong nước; ông đào tạo các mục sư và gởi về lãnh đạo các giáo đoàn tại Pháp. Dù bị bách hại dữ dội dưới triều Henri II, Giáo hội Cải cách Pháp theo thần học Calvin phát triển mạnh trong nhiều vùng rộng lớn của nước Pháp, trong giới thị dân tiểu tư sản, và một phần giới thượng lưu cầm quyền.

Đến thập niên 1550, nhiều người trong giới quý tộc chấp nhận đức tin Kháng Cách, từ đó xuất hiện những mầm mống phát sinh cuộc tranh chấp lâu dài được biết đến với tên Chiến tranh Tôn giáo Pháp. Cuộc nội chiến được đẩy nhanh bởi cái chết đột ngột của Henri II năm 1559, bắt đầu thời kỳ suy thoái kéo dài của vương quyền Pháp. Sự tàn bạo và thái độ cực đoan là những đặc điểm nổi trội của giai đoạn này, thể hiện trong vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy trong tháng 8 năm 1572, có khoảng từ 30 000 đến 100 000 người Huguenot bị tàn sát trên khắp nước Pháp.[14] Cuộc chiến kết thúc khi Henri IV, từng là một chiến binh Huguenot, ban hành Chỉ dụ Nantes, ban một số quyền tự do có giới hạn cho cộng đồng thiểu số Kháng Cách. Công giáo trở nên quốc giáo, tài sản của người Kháng Cách Pháp tiêu tán dần trong thế kỷ kế tiếp, nhất là khi Louis XIV ban hành Chỉ dụ Fontainebleau thu hồi Chỉ dụ Nantes, và thiết lập Công giáo là tôn giáo duy nhất của nước Pháp. Phản ứng lại Chỉ dụ Nantes, Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg công bố Sắc lệnh Potsdam, ban quyền tự do nhập cư cho di dân Huguenot Pháp, cũng như miễn thuế cho họ trong vòng 10 năm.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cải_cách_Kháng_nghị http://books.google.com/books?vid=0bbTMcT6wXFWRHGP... http://books.google.com/books?vid=OCLC00403814&id=... http://books.google.com/books?vid=OCLC02338418&id=... http://books.google.com/books?vid=OCLC02338418&id=... http://www.orlutheran.com/html/mlserms.html http://www.questia.com/PM.qst?a=o&d=62407231 http://home.eckerd.edu/~oberhot/paris-siege-stbart... http://history.hanover.edu/early/prot.html http://www.umbc.edu/history/CHE/techerpages/Eppard... http://www.yale.edu/lawweb/avalon/westphal.htm